Trong thời gian vừa qua, có rất nhiều tranh chấp liên quan đến Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là “Giấy chứng nhận”). Vậy, Giấy chứng nhận có phải là tài sản hay không, hãy để HẠNH MINH LAW FIRM giải đáp cùng Quý độc giả.
Tài sản là gì?
Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015): “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.
Như vậy, BLDS 2015 đã liệt kê cụ thể về tài sản, đó là: vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản. Trong đó, cần phân biệt rõ giấy tờ có giá và quyền tài sản là hoàn toàn khác nhau.
Hiện nay trong Bộ luật Dân sự 2015 không có một định nghĩa cụ thể nào về giấy tờ có giá mà chỉ xác định giấy tờ có giá là một dạng của tài sản. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2020 thì “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. Trong trường hợp này giấy tờ có giá chính là một loại giấy tờ có giá trị, giống dạng của giấy ghi nợ dùng để chứng minh nghĩa vụ trả nợ giữa bên phát hành và bên sở hữu giấy tờ có giá.
Điều 115 BLDS 2015 quy định “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.
Khoản 1 Điều 104 Luật Đất đai năm 2013 quy định tài sản gắn liền với đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất bao gồm nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng sản xuất là rừng trồng và cây lâu năm có tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Khoản 1 Điều 97 Luật Đất đai năm 2013 quy định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được cấp cho người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất theo một loại mẫu thống nhất trong cả nước.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất (Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013).
Giấy tờ có giá là một loại tài sản. Vì vậy nó có thể được mua bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố,… trong các giao dịch dân sự. Xuất phát từ cách hiểu này, dẫn đến nhiều người nhầm lẫn khi xác định các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy đăng ký xe… là giấy tờ có giá khi tham gia giao dịch.
Tuy nhiên, những giấy tờ trên không thể được coi là giấy tờ có giá theo quy định của pháp luật vì Công văn 141/TANDTC-KHXX đã giải thích giấy tờ có giá chỉ bao gồm các loại sau:
– Các loại trái phiếu do Nhà nước, công ty phát hành, kỳ phiếu và cổ phiếu
– Các loại hồi phiếu đòi nợ, hồi phiếu nhận nợ, Séc, các công cụ chuyển nhượng khác như loại giấy tờ có giá ghi nhận nội dung lệnh thanh toán hoặc bản cam kết thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong một khoảng thời gian xác định.
– Trái phiếu, công phiếu, hồi phiếu…
– Giấy tờ chứng nhận sở hữu cổ phiếu, mua trái phiếu, quyền chọn mua/bán, hợp đồng góp vốn và các loai giấy tờ khác theo quy định tại Luật chứng khoán 2006
Hiện nay các loại giấy tờ có giá được pháp luật Việt Nam công nhận đều đã được quy định chi tiết trong nội dung của luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010. Tất cả các loại giấy tờ khác không được quy định trong luật thì không phải là giấy tờ có giá.
Theo các quy định trên, có thể hiểu rõ hai vấn đề về Giấy chứng nhận:
(1) Giấy chứng nhận không phải là giấy tờ có giá theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
(2) Giấy chứng nhận không phải là tài sản.
Trên đây là ý kiến tư vấn của HẠNH MINH LAW FIRM liên quan đến vấn đề về “Giấy chứng nhận có phải là tài sản hay không ?” trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật. Hy vọng ý kiến tư vấn của HẠNH MINH LAW FIRM sẽ hữu ích cho Quý độc giả.